NỘI DUNG KHOA HỌC
- Qua thực hiện nghiệm pháp truyền dịch nhanh trên 75 bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng và sốc nhiễm khuẩn tại bệnh viện Chợ rẫy và bệnh viện Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh, nhóm nghiên cứu rút ra được một số kết luận sau:
- Trên các bệnh nhân vào khoa hồi sức tích cực và đã được bù dịch trước đó, mặc dù bệnh nhân có thể vẫn còn chỉ định bù dịch nhưng tỷ lệ đáp ứng bù dịch không cao. Tỷ lệ đáp ứng với lần bù dịch thứ hai rất thấp nếu bệnh nhân đã không đáp ứng với lần bù dịch đầu tiên.
- Mặc dù tần số tim là một dấu hiệu sinh tồn cơ bản và được theo dõi thường quy ở tất cả bệnh nhân sốc, tuy nhiên tần số tim trước bù dịch không có giá trị tiên đoán đáp ứng bù dịch.
- Áp lực tĩnh mạch trung tâm trước bù dịch không có tương quan với biến đổi thể tích nhát bóp sau bù dịch. Số liệu nghiên cứu cho thấy, các mức CVP theo phác đồ điều trị sốc nhiễm khuẩn 2012 không có giá trị tiên đoán đáp ứng bù dịch. Tuy nhiên, trên nhóm bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn, CVP 9mmHg có độ nhạy khá cao trong tiên đoán đáp ứng bù dịch.
- Biến đổi tần số tim sau bù dịch có giá trị tiên đoán đáp ứng bù dịch với độ nhạy khá cao ở nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng. Tuy nhiên mức giảm tần số tim này khá thấp ( 4 lần/phút) khó phân biệt được do đáp ứng bù dịch hay do biến thiên sinh học.
- Huyết áp trung bình mặc dù là thông số được khuyến cáo là mục tiêu điều trị trong phác đồ điều trị sốc nhiễm khuẩn nhưng biến đổi huyết áp trung bình chỉ có tương quan yếu với biến đổi thể tích nhát bóp sau bù dịch. Biến đổi huyết áp trung bình có giá trị tiên đoán kém đáp ứng bù dịch.
- Biến đổi áp lực mạch có tương quan khá tốt với biến đổi thể tích nhát bóp ở cả nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng và nhóm bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn. Áp lực mạch tăng 9% sau bù dịch có giá trị tiên đoán đáp ứng bù dịch với độ nhạy 92,3%, độ đặc hiệu 61,2%.
TIỀM NĂNG ỨNG DỤNG
ĐƠN VỊ CÓ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG